Nên tránh khả năng bị tiêu chảy ra sao
- Họ và tên: Nguyễn Anh Tuấn (tuan.boyhn)
- Ngày đăng: 10:35, 13-10-2017
- Lượt xem: 1,100
- Liên hệ người bán
Nội dung chi tiết
Tiêu chảy kèm sốt ở người nghiêm trọng là thể bệnh gì? Chứng bệnh tiêu chảy, có tên tiếng Anh là Diarrhea . Đây là tình trạng bệnh nhân đi cầu ra phân lỏng từ ba lần hoặc không ít hơn 3 lần một ngày. Bệnh được chia ra tiến hành hai loại là tiêu chảy cấp đặc tính và tiêu chảy mạn tính. Trong đó tình trạng tiêu chảy kèm sốt ở trường hợp lớn là một trong các biểu hiện của căn bệnh tiêu chảy cấp tính. Căn bệnh tiêu chảy có 2 loại: Tiêu chảy cấp đặc tính và tiêu chảy mãn tính. Tiêu chảy cấp tính là căn bệnh gì? Tiêu chảy cấp đặc tính là mức độ căn bệnh tiêu chảy nhiều ngày khoảng 14 ngày đối với lượng phân tương đối nhiều và lỏng hơn. Để nhận thấy chứng bệnh trường hợp ta chia tiêu chảy cấp thành 2 nhóm bệnh. Nhóm 1: Tiêu chảy cấp xâm nhập: Là mức độ tiêu chảy đi kèm với sốt ở thành phần không nhỏ và cả trẻ em. Ngoài ra trường hợp bị tiêu chảy cấp xâm nhập còn bị phân có nhầy máu không ít, lượng có khả năng quá nhiều cũng có khả năng chỉ mắc phải vừa phải.
nhân tố hay gặp nhất của căn bệnh này là do các viêm ruột xuất tiết: do vi khuẩn hoặc do ký sinh trùng. Dùng Oresol: pha áp dụng theo chỉ định tiêu chảy cấp thể nhẹ. Oresol có pha thêm đường muối và các ion giúp bạn rối loạn biến đổi nước và điện giải trong cơ thể. Khi không có oresol bạn có nguy cơ tự pha nước đường và muối hoặc nước cháo và muối để dùng thay thế. Thời kỳ trầm trọng người bệnh nên truyền tĩnh mạch bồi phụ nước và các dinh dưỡng điện giải theo các chỉ số điện giải, hematocrit và cả toàn trạng người mắc bệnh. Cần phải giảm thiểu truyền đường ưu trương. Truyền dịch: Bạn cần phải cung cấp thêm vào cơ thể dung dịch muối Cl, Na đẳng trương, ringer lactate. Song lưu ý là không được áp dụng dung dịch đường ưu trương. Kháng sinh giúp cho nâng huyết áp trong đối tượng mắc phải huyết áp hạ. Thuốc cầm tiêu chảy kiểu không đặc hiệu như loperamid, imodium có thể chỉ định để áp dụng trong một số trường hợp nhẹ. Một tỷ lệ trầm trọng bạn có khả năng cân kể lấy somatostatin hoặc là ortrotid. Giải pháp dùng kháng sinh khi có tiêu chảy nặng: viên 2mg - uống 2 viên, Sau đó mỗi lần đi ngoài thì sử dụng 1 viên, 24 giờ có thể lấy tối đa là 10 viên. Đối tượng nhẹ hơn có thể áp dụng 1 viên 1 lần và uống 2 lần/ngày.
có thể uống kháng sinh theo kinh nghiệm mà không cần phải chờ thăm khám cấy phân. Kháng sinh thích hợp là nhóm fluoroquinolon: norfloxacin 400mg x 2 viên/ ngày hoặc ciprofloxacin 500mg x 2 viên/ ngày hoặc levofloxacin 500mg x 1 viên/ ngày. Thời gian uống từ 3 – 5 ngày. Một tỷ lệ khi xác định được vi sinh vật gây ra căn bệnh sẽ dùng thuốc khác và thời gian sử dụng hợp lý hơn, chẳng hạn như amíp hoặc giardia sẽ lấy metronidazole. Các kháng sinh cầm tiêu chảy (LOPERAMID): có khả năng được tự sử dụng. Kháng sinh có khả năng giảm thiểu số lượng dịch mất, suy nhược số lần đi cầu và số lượng phân, rút ngắn quá trình bị bệnh. Chỉ cần thiết phải dùng liều vửa đủ giảm thiểu số lần đi đại tiện hơn là thực hiện ngừng hẳn tiêu chảy. Liều LOPERAMID 2mg, khởi liều lấy 2 viên/ ngày chia 2 lần.
Xem thêm: http://www.htc.edu.vn/forum/viewtopic.php?f=44&t=9944
Tăng dần đến 6 viên/ ngày. Có tác dụng giảm thiểu số lần tiêu chảy, lượng phân và suy giảm nhu động ruột dẫn tới giảm cơn đau quặn bụng cho bệnh nhân. Liều BUSCOPAN 10mg x 4 – 6 viên/ ngày, chia 2 – 3 lần. Về lý thuyết thuốc hấp thu độc tố do vi khuẩn tạo thành và phòng chống chúng bám vào màng tế bào ruột. Để có hữu hiệu, thuốc phải được sử dụng sớm trước khi các độc tố gắn được vào tế bào niêm mạc ruột. Thuốc có nguy cơ thực hiện tăng lượng phân, suy nhược số lần đi ngoài tuy vậy không giảm thiểu lượng dịch mất và Do vậy không phòng tránh mức độ mất nước. Các thuốc kháng sinh này không có hiệu quả đối với người mắc bệnh tiêu chảy phân máu có nhiễm khuẩn. Probiotic là các vi khuẩn không gây nên căn bệnh, ví như lactobacillus acidophilus và Saccharomyces boulardii. Chúng sinh trưởng ở ruột bệnh nhân và sản xuất ra các hoạt chất chuyển hoá gây nên tăng độ acid trong phân và ức chế sự tiến triển của các vi khuẩn gây ra căn bệnh. Chúng phòng chống sự xâm nhập của vi khuẩn vào mô ruột và sản xuất ra các acid béo chuỗi ngắn có lợi cho sự khôi phục ruột và tăng tốc độ hấp thu dịch và điện giải.